- Back to Home »
- Hệ thống lưu trữ trong AIX
Posted by : Unknown
Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014
Trong các hệ thống UNIX truyền thống, các ổ đĩa được chia thành các
partitions và người dùng phải cấu hình chính xác dung lượng trước khi sử dụng.
Mỗi file system sẽ nằm trên một partition trên ổ cứng, do đó, việc
thay đổi dung lượng của file system là công việc không hề đơn giản. Nhược điểm
chính của phương pháp truyền thống này, là mỗi partition sẽ chiếm một không
gian liên tục trên ổ đĩa và partition chỉ có thể nằm trên duy nhất 1 ổ đĩa cứng
vật lý.
Để khắc phục, AIX đã
sử dụng LVM (Logical Volume Manager) để quản lý thiết bị lưu trữ. Các ưu điểm
của LVM:
-
Một file system có thể nằm trên
nhiều đĩa cứng vật lý
-
Có thể điều chỉnh tăng kích
thước file system
-
Có thể dễ dàng bổ sung thêm đĩa
cứng vào hệ thống lưu trữ
LVM quản lý tài nguyên lưu trữ bằng cách ánh xạ giữa không gian lưu
trữ logic với đĩa cứng vật lý.
Hình 1: Kiến trúc của Volume Group
Kiến trúc được LVM sử
dụng để quản lý đĩa gồm:
-
Volume groups
-
Physical volumes
-
Physical partitions
-
Logical volumes
-
Logical partitions
Một Volume Group (VG) là đơn vị lưu trữ lớn nhất. Một VG chứa một
hoặc nhiều Physical volumes (thường là đĩa cứng). Dung lượng của một VG bằng
tổng dung lượng của các đĩa cứng vật lý.
Physical volume (PV): là khái niệm để chỉ một đĩa cứng vật lý. Để có
thể quản lý bởi LVM, đĩa cứng vật lý phải được gộp vào trong volume group hoặc
tạo riêng một volume group cho ổ đĩa cứng. Một PV chỉ có thể thuộc một VG.
Physical partition (PP): Tất cả các physical volume trong volume
group được phân chia thành các physical partition (PP). Các PP trong cùng một
VG có cùng một kích thước, thường là 1MB, 4MB, 8MB, 16MB, 32MB…
Logical volume (LV): LV là một tập hợp các
thông tin nằm trên PV. Với mỗi VG sẽ có một hoặc nhiều logical volumes (LV)
được định nghĩa. Người dùng sẽ nhìn thấy các dữ liệu trong LV là liên tục nhưng
các dữ liệu này có thể nằm dải rác, không liên tục trên physical volume (ổ đĩa
cứng) hoặc thậm chí nằm trên các physical volume khác nhau.
Logical Partition (LP): mỗi logical volume
bao gồm một hoặc nhiều logical partition (LP). LP có cùng kích thước với
physical partition. Mỗi LP đều được ánh xạ tới một PP nằm trên physical volume.
Các LP phải liên tiếp nhau nhưng các PP được ánh xạ tới có thể nằm rải rác.
Cách quản lý này cho phép file system có thể thay đổi kích thước, nằm phân bố
trên nhiều ổ đĩa.
Có 3 loại Volume Group, mỗi loại quy
định các giới hạn lưu trữ khác nhau:
Loại Volume
Group
|
Max PVs
trên một VG
|
Max LVs
trên một VG
|
Max PP trên
một VG
|
Kích thước
Max của một PP
|
Original
|
32
|
256
|
32512
(1016*32)
|
1 GB
|
Big
|
128
|
512
|
130048
(1016*128)
|
1 GB
|
Scalable
|
1024
|
4096
|
2097152
|
128 GB
|
Bảng
1: Tham số cho Volume Group
Original và Big type:
quy định số PP tối đa trên 1 PV la 1016
Scalable không quy
định số PP tối đa trên PV mà chỉ có giới hạn số PP trên một VG là 2097152.
Quy ước đặt tên cho
các LV được tạo ra bởi hệ thống là /dev/hdx và quy ước đặt tên cho các LV được
tạo ra bởi người dùng là /dev/lvxx.
Một Logical Volume có
thể chứa:
-
File system Journaled (JFS)
hoặc enhanced journaled file system (JFS2)
-
Journal log (/dev/hd8)
-
Paging space (/dev/hd6)
-
Boot logical volume (/dev/hd5)
-
Dump device
-
Raw logical volume
Khái niệm về file system: File system là một kiến trúc thư mục dùng để lưu trữ file. Kiến trúc
này bao gồm thư mục gốc và các thư mục con. Trong hệ thống AIX, có nhiều file
system tạo thành kiến trúc cây duy nhất với một thư mục root.
AIX hỗ trợ 7 loại file system:
-
JFS: Journaled File System, sử
dụng để định dạng một Logical Volume trên đĩa
-
JFS2: Enhanced Journaled File
System, sử dụng để định dạng một Logical Volume trên đĩa
-
CDRFS: CD ROM File System
-
UDFS: Universal Disk Format
(UDF) file system
-
CIFS
-
NFS: Network File System được
truy nhập qua mạng
-
PROCFS
-
NAMEFS
Các
File system mặc định trên AIX:
Khi mới cài đặt AIX,
hệ thống sẽ tự động tạo ra một volume group là rootvg để chứa các logical
volume cần thiết để khởi động hệ thống. rootvg chứa: paging space, journal log,
boot data trên các logical volume riêng rẽ.
Có 7 journaled file
system và 1 (/proc) file system tồn tại mặc định trên hệ thống:
/(root)=/dev/hd4 : là đỉnh của kiến trúc cây, chứa các file
và thư mục cần thiết cho quá trình boot và quá trình hoạt động của hệ thống
/usr=/dev/hd2 : chứa các thư viện, chương trình ứng dụng,
lệnh hệ thống
/var=/dev/hd9var : chứa các biến và log file
/home=/dev/hd1 : chứa các thư mục của người dùng, nơi lưu
trữ file dữ liệu của người dùng
/tmp=/dev/hd3 : không gian để lưu trữ các file tạm thời
/opt=/hd10opt : lưu trữ các file freeware
/proc=/proc : file system ảo được lưu trong memory,
file system này không được dùng để chứa file của người dùng
/admin=/hd11admin
Hình
2: File system mặc định trên AIX
Trên hình mô tả các file system mặc định trên AIX và đã kết nối với
các mout points mặc định.
Mount:
-
Là phương thức để kết nối giữa
file system với kiến trúc thư mục. File system phải được mout lên trước khi
được sử dụng.
-
Khi file system được mout, các
dữ liệu trong logical volume sẽ được kết nối với thư mục trong kiến trúc cây.
Xét một ví dụ khi thực hiện lệnh mount:
#mount
/dev/fslv00 /home/patsie
Trường hợp mout point /home/patsie là một thư mục rỗng: sau khi
mout, người dùng có thể truy cập vào dữ liệu trong file system. Lúc này file
system trở thành một phần trong kiến trúc cây thư mục. Đối với người dùng, sẽ
không thể phân biệt được đâu là điểm bắt đầu và kết thúc của một file system.
Hình 3: Trường hợp mout point là thư mục rỗng
Trường hợp mout point
là một thư mục đã có sẵn dữ liệu: lúc này các file và thu mục con có sẵn trong
mout point sẽ bị ẩn đi đối với người dùng và chỉ có thể được sử dụng sau khi
thực hiện lện unmount.
Hình
4: Trường hợp mout point là thư mục có sẵn dữ liệu
Một số câu lệnh dùng
để kiểm tra trạng thái file system:
# lsfs : hiển thị thông tin đặc tính của các file
system
# lsvg –l vgname :
hiển thị thông tin về volume group
# lslv lvname : hiển thị thông tin về logical volume